Scholar Hub/Chủ đề/#nhiễm độc kim loại nặng/
Nhiễm độc kim loại nặng là hiện tượng cơ thể con người hoặc động vật bị tiếp xúc hoặc tiếp nhận một lượng lớn các những kim loại nặng như thủy ngân, chì, cadmiu...
Nhiễm độc kim loại nặng là hiện tượng cơ thể con người hoặc động vật bị tiếp xúc hoặc tiếp nhận một lượng lớn các những kim loại nặng như thủy ngân, chì, cadmium, arsenic, niken, phóng xạ... Tình trạng nhiễm độc này có thể xảy ra do việc sử dụng hoặc tiếp xúc với các chất hoá học, nước, thực phẩm hoặc không khí chứa chất chứa kim loại nặng. Nhiễm độc kim loại nặng có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng bao gồm đau đầu, suy nhược, bệnh nội tiết, suy giảm chức năng thần kinh, tổn thương gan và thận, vô sinh, dị tật thai nhi và đôi khi dẫn đến tử vong.
Nhiễm độc kim loại nặng là một trạng thái mà cơ thể bị tác động bởi lượng lớn các kim loại nặng gây hại, vượt quá mức chịu đựng của cơ thể. Những kim loại nặng như thủy ngân, chì, cadmium, arsenic, niken, phóng xạ và nhiều kim loại khác có thể tồn tại trong môi trường xung quanh chúng ta, trong nước, đất, thực phẩm, không khí, hoặc truyền qua quá trình công nghiệp và sinh hoạt hàng ngày.
Sự tiếp xúc với các kim loại nặng có thể xảy ra qua đường hô hấp khi hít phải bụi hoặc hơi chứa kim loại nặng trong không khí, qua đường tiếp xúc khi chúng cắt xé da và thâm nhập vào cơ thể. Ngoài ra, nguồn cung cấp nước ô nhiễm kim loại nặng, sử dụng sản phẩm chứa kim loại nặng hoặc tiếp xúc với thuốc trừ sâu và mỹ phẩm có thể góp phần vào nhiễm độc kim loại nặng.
Các kim loại nặng này có khả năng tích lũy trong cơ thể qua quá trình của chúng không thể được loại bỏ hoặc của quá trình chuyển hóa trong cơ thể quá chậm. Do đó, chúng sẽ gây ra các tác động độc hại lên mô cơ thể và các hệ thống sinh lý khác trong cơ thể, như hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, hệ thống miễn dịch và hệ thống hoocmon.
Tùy thuộc vào kim loại nặng cụ thể mà tác động có thể gây ra các triệu chứng và bệnh lý khác nhau. Ví dụ, thủy ngân có thể gây ra rối loạn thần kinh, chì có thể gây hại cho hệ tiêu hóa và hệ tiết niệu, cadmium có thể gây xơ hóa phổi và ung thư phổi, arsenic có thể gây ung thư gan và bệnh tim mạch.
Để xác định mức độ nhiễm độc kim loại nặng, các phương pháp như xét nghiệm huyết thanh, xét nghiệm nước tiểu và xét nghiệm tóc có thể được sử dụng. Nếu xác định nhiễm độc, các biện pháp điều trị như loại trừ nguồn cung cấp nhiễm độc, sử dụng thuốc chelate để loại bỏ kim loại nặng từ cơ thể và hỗ trợ thể chất và tâm lý sẽ được áp dụng.
Khảo sát sự tác động của ion chì (Pb2+) lên sự phát triển tim và xương sống của ấu trùng cá Sóc – Oryzias Curvinotus giai đoạn 1- 10 ngày tuổi Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tác động của ion chì (Pb 2+ ) ở các nồng độ 0; 20; 40; 60; 80; 100; 120; 140µg/L lên quá trình phát triển cá thể cá Sóc Oryzias curvinotus giai đoạn từ 1 – 10 ngày tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ Pb 2+ càng cao thì không chỉ gây dị tật xương sống mà còn làm biến dạng xương hộp sọ. Ngoài ra, theo sự tăng dần của nồng độ Pb 2+ khảo sát thì chiều dài của ấu trùng cá Sóc giảm theo phương thức tuyến tính. Đối với ấu trùng cá Sóc, các nồng độ Pb 2+ được khảo sát vẫn chưa làm xuất hiện dị tật tim mặc dù Pb 2+ đã làm thay đổi nhịp tim. Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman","serif";}
#ion chì #nhiễm độc kim loại nặng #phôi cá #cá Sóc
Khảo sát sự tác động của ion đồng (Cu2+) lên các hoạt động sinh lí trong giai đoạn phôi cá Ngựa vằn – Danio Rerio Hamilton, 1822 Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tác động của ion đồng (Cu 2+ ) ở các nồng độ 0µg/L; 500 µg/L ; 1000 µg/L ; 2000 µg/L lên các hoạt động sinh lí trong giai đoạn phôi của cá Ngựa vằn ( Danio rerio Hamilton , 1822 ) . Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nồng độ Cu 2+ khảo sát đã làm thay đổi hoạt động sinh lí quẫy mình của phôi cá , nhưng khi nồng độ đồng càng cao lại làm tăng nhịp tim cá ở giai đoạn hầu họng và thoát nang và làm tăng thời gian thoát nang của phôi cá. 16.00 Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman",serif;}
#ion đồng (Cu2+) #nhiễm độc kim loại nặng #cá ấu trùng #phôi cá Ngựa vằn.
ẢNH HƯỞNG CỦA ION CHÌ (Pb2+) LÊN TỈ LỆ SỐNG VÀ DỊ TẬT XƯƠNG SỐNG CỦA ẤU TRÙNG CÁ SÓC Oryzias curvinotus GIAI ĐOẠN 1-10 NGÀY TUỔI Ion chì là một trong những cation có tác động lên sức sống, khả năng sinh trưởng, dị tật về xương sống trong quá trình sống của cá. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tác động của ion chì (Pb 2+ ) ở các nồng độ 0 µg/L; 50 µg/L ; 100 µg/L ; 150 µg/L lên quá trình phát triển cá Sóc giai đoạn ấu trùng sau nở từ 1-10 ngày tuổi. Kết quả cho thấy: (i) ở các nồng độ Pb 2+ được kiểm tra khác nhau, nồng độ tối thiểu Pb 2+ ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá Sóc là 50 µg/L; (ii) ở mọi nồng độ được kiểm tra Pb 2+ , tỉ lệ sống của cá bị ảnh hưởng nhiều nhất vào ngày thứ 5 tại nồng độ 150 µg/L . Dựa vào kết quả thu được, chúng tôi thiết lập một phương trình để dự đoán tỉ lệ sống của ấu trùng cá và tìm được nồng độ LD 50 Pb 2+ gây chết cá ấu trùng sau 10 ngày nuôi là 98 µg/L và LT 50 của Pb 2+ ở nồng độ 150 µg/L là 9,76 ngày . Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ Pb 2+ càng cao càng làm giảm tỉ lệ sống của cá, tăng dị tật xương sống cá ấu trùng và ảnh hưởng cao nhất tại nồng độ 150 µg/L.
#ion chì #nhiễm độc kim loại nặng #cá ấu trùng #cá Sóc Oryzias curvinotus
ẢNH HƯỞNG CỦA ION ĐỒNG (Cu2+) LÊN TỈ LỆ SỐNG, SỰ TĂNG TRƯỞNG VÀ SỐ LƯỢNG HỒNG CẦU CÁ NGỰA VẰN TRƯỞNG THÀNH Ion đồng là một trong những cation tác động lên sức sống, khả năng tăng trưởng, số lượng tế bào máu trong quá trình sống của thủy sản, Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá tác động của ion đồng (Cu 2+ ) ở các nồng độ 0 µg/L; 500 µg/L ; 1000 µg/L ; 2000µg/L lên quá trình phát triển và chỉ số máu cá Ngựa vằn giai đoạn trưởng thành. Kết quả cho thấy: (i) ở các nồng độ Cu 2+ được kiểm tra khác nhau, nồng độ tối thiểu Cu 2+ ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá Ngựa vằn là 500 µg/L; (ii) ở mọi nồng độ được kiểm tra Cu 2+ , tỉ lệ sống của cá bị ảnh hưởng đáng kể vào ngày thứ 6 và ảnh hưởng nhiều nhất tại nồng độ 2000 µg/L . Dựa vào kết quả thu được, chúng tôi thiết lập một phương trình để dự đoán tỉ lệ sống của ấu trùng cá và tìm được nồng độ gây chết 50% cá (LD 50 ) Cu 2+ gây chết cá sau 11 ngày cảm nhiễm là 1515 µg/L và thời gian gây chết 50% cá (LT 50 ) của Cu 2+ ở nồng độ 500 -2000 µg/L là từ 8,42-24,61 ngày, Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng độ Cu 2+ càng cao làm giảm tỉ lệ sống và khả năng tăng trưởng của cá, làm giảm số lượng tế bào hồng cầu của cá đặc biệt tại nồng độ 2000µg/L.
#ion đồng #chỉ số máu #nhiễm độc kim loại nặng #cá Ngựa vằn
Biofilm nấm-khuẩn trung gian khử độc kim loại nặng trong rễ Dịch bởi AI World Journal of Microbiology and Biotechnology - Tập 38 - Trang 1-13 - 2022
Ô nhiễm kim loại nặng do sử dụng quá mức phân bón hóa học (CF) gây ra thiệt hại lớn cho môi trường. Biofilm vi sinh vật, gắn chặt với vùng rễ, có khả năng khôi phục đất bị ô nhiễm kim loại nặng bằng cách giảm độc tính cho thực vật. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện để kiểm tra hiệu quả khử độc của biofilm vi sinh vật đối với kim loại nặng bị ô nhiễm. Nấm và vi khuẩn được phân lập từ đất đã được sàng lọc để đánh giá khả năng chịu đựng của chúng với các ion Cd2+, Pb2+ và Zn2+. Ba chủng vi khuẩn và hai chủng nấm được chọn dựa trên tỷ lệ chỉ số chịu đựng (TI). Biofilm nấm-khuẩn (FBBs) đã được phát triển với các chủng vi sinh vật chịu đựng tốt nhất và tiếp tục được sàng lọc về khả năng khôi phục của chúng đối với kim loại nặng. Biofilm tốt nhất đã được đánh giá về khả năng khôi phục rễ với các sự kết hợp CF khác nhau thông qua một thí nghiệm trong chậu được tiến hành trong điều kiện nhà kính với khoai tây. Có sự khác biệt đáng kể (P < 0.05), tỷ lệ loại bỏ kim loại cao nhất được quan sát ở biofilm Trichoderma harzianum và Bacillus subtilis trong điều kiện in situ. So với 100% CF được khuyến nghị, biofilm với 50% CF được khuyến nghị (50CB) đã giảm đáng kể (P < 0.05) nồng độ Pb2+ có sẵn trong đất xuống 77%, Cd2+ 78% và Zn2+ 62%. So với nồng độ kim loại ban đầu trong đất, các giá trị tương ứng đã giảm 73%, 76% và 57% đối với Pb2+, Cd2+, và Zn2+. Ngoài ra, điều trị 50CB cũng đã làm giảm đáng kể (P < 0.05) sự xâm nhập của kim loại vào mô củ so với 100C. Do đó, chức năng của FBB phát triển với T. harzianum–B. subtilis có thể được sử dụng như một giải pháp tiềm năng để khôi phục đất bị ô nhiễm bởi các chất ô nhiễm kim loại Pb2+, Cd2+, và Zn2+.
#kim loại nặng #biofilm vi sinh vật #khôi phục môi trường #nấm #vi khuẩn #ô nhiễm đất